Xe Honda N360
Vào cuối thập niên 1960, miền nam Việt Nam bước qua giai đoạn cơ giới hoá các phương tiện giao thông; một phần do nhu cầu đi lại của dân chúng, một phần đánh dấu sự phát triển về đời sống và tiện nghi trong đó xe máy và xe ô-tô đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng kinh tế quốc gia. Một trong những phương tiện giao thông rẻ tiền tại Việt Nam vào đầu thập niên 1970 là chiếc xe Honda N360.
Nguồn gốc về xe Honda
Một ngày vào tháng 9 năm 1946, ông Honda đã đến thăm nhà một người bạn, ông Kenzaburo Inukai. Ở đó, tình cờ, ông thấy một động cơ nhỏ. Ông đã quen biết ông Inukai thông qua việc sửa chữa ô-tô khi ông làm việc tại chi nhánh Art Shokai ở Hamamatsu và ông Inukai đang chạy xe cho một công ty taxi. Ông Inukai đã có cơ may mua sắm được một động cơ máy phát điện được thiết kế cho một đài vô tuyến số 6 cũ của Quân Đội Hoàng Gia Nhật mà một người quen đã để lại cho ông ấy. Khi ông Honda nhìn thấy cổ máy, ngay lập tức ông đã lấy cảm hứng với một ý tưởng. Đó cũng là khoảnh khắc của duyên số trời định. Cuộc gặp gỡ này xác định toàn bộ hướng tương lai của ông Honda, và từ đó mà sau này Honda Motor Co. sẽ được sinh ra.
Ông Honda đã bắt đầu hành nghề như là một thợ cơ khí sửa chữa ô tô. Động cơ là những gì ông biết tốt nhất và trên hết, ông là một nhà phát minh.
Chẳng cần phải mất nhiều thời gian để gợi cho ông Honda ý tưởng: "Hãy sử dụng cổ máy nầy để cung cấp năng lượng cho một chiếc xe đạp".
Viện Nghiên Cứu Kỹ Thuật Honda tại số 30, khu Yamashita-cho, thành phố Hamamatsu
Khái niệm gắn một động cơ phụ trợ để cung cấp sức kéo cho một chiếc xe đạp đã trải qua khoảng một thời gian dài. Nó đã được chế tạo thành một sản phẩm thương mại ở Anh Quốc và những nơi khác, và một vài trong số các sản phẩm này đã được nhập khẩu vào Nhật Bản trong những ngày trước chiến tranh. Hơn nữa, khái niệm ban đầu của xe gắn máy được phát triển từ khái niệm lắp đặt thêm một nguồn năng lượng để tăng sức đẩy cho chiếc xe đạp. Một chiếc xe đạp với một động cơ phụ trợ kèm theo rất gần với thiết kế những xe mô-tô lúc ban đầu. Mặc dù chiếc xe đạp gắn máy như vậy đã được sản xuất ra trên thế giới, nó vẫn không được phổ biến ở Nhật Bản trong thời gian trước chiến tranh. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, điều kiện giao thông ở Nhật Bản đã xấu đi, và phương tiện chủ yếu của người dân về giao thông vận tải là chiếc xe đạp. Với hàng hóa xếp chồng lên cao, nó đã trở thành một phương tiện làm ăn trong việc vận chuyển hàng hóa. Nếu một động cơ phụ trợ có thể được gắn thêm vào sẽ giúp cho việc vận tải hàng hoá bằng xe đạp trở nên dể dàng. Và như thế lại tăng thêm sự hửu dụng của chiếc xe. Ông Honda đã phát hiện ra một cái gì đó mà mọi người sau này sẽ được hưởng, đồng thời cũng là một dịch vụ kinh doanh tốt, và hơn nữa lại là trong lĩnh vực đặc biệt của riêng ông Honda.
Ông Honda ngay lập tức để làm việc trên một mẫu gốc. Đó là vào thời điểm này, ông lấy một chai nước nóng kiểu Nhật Bản mà ông tìm thấy trong nhà của mình và sử dụng nó như là bình xăng. Các mẫu thử nghiệm ban đầu có động cơ gắn vào phía trước của tay lái xe đạp và áp dụng sức kéo bằng một con lăn ma sát cao su áp vào bên hông của bánh xe phía trước. Khái niệm này giống như xe Vélo-Solex, một xe gắn máy bán chạy nhất tại Pháp. Tuy nhiên, phương pháp này nhanh chóng phá hỏng các lốp xe kém chất lượng do sự ma sát dẫn đến nổ lốp thường xuyên. Các người sử dụng xe cũng là người nghèo và phương pháp này đã nhanh chóng bị bỏ rơi. Thay vào đó, ông thay đổi ý tưởng của mình bằng cách bố trí động cơ thông thường với một vành đai hình V kéo bánh xe phía sau.
Kiểu xe đạp Type A gắn động cơ phụ trợ đầu tiên của công ty Honda
Tuy nhiên ở thời điểm nầy, chúng ta phải nhận thấy rằng ý tưởng cổ máy ban đầu đã là khả thi. Phương pháp gắn bộ ly hợp cùng với dây đai kéo đã được ghi nhận như là một mô hình hữu ích.
Trong giai đoạn sau chiến tranh này, xe đạp với động cơ phụ trợ xuất hiện cùng lúc ở các vùng khác nhau trong nước Nhật Bản. Đây không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Thay vào, đấy là một hiện tượng xuất hiện để đáp ứng nhu cầu đi lại vào thời điểm đó. Sản xuất xe máy thích hợp đã khởi động, mặc dù với số lượng nhỏ, bởi một số ít các công ty đã sản xuất trước chiến tranh, và một phiên bản hoàn toàn mới của xe hai bánh cũng được sản xuất vào năm chiến tranh kết thúc. Đây là xe tay ga đầu tiên được chế tạo tại Nhật Bản, xe scooter Fuji Rabbit vào năm 1945 (xem bài viết về xe scooter Fuji Rabbit).
Tuy nhiên, giá bán những chiếc xe máy nầy ở ngoài tầm tay của đa số mọi người. Ngược lại, các cổ máy phụ trợ cho một chiếc xe đạp đã được chào đón như là một tiện nghi mang tính cách mạng mà bằng cách nào đó mọi người đều có thể mua sắm.
Xe đạp Type A năm 1946 với động cơ 2 thì kéo máy phát điện cho đài vô tuyến số 6 được Soichiro Honda mua về cải tiến và lắp ráp trên xe đạp
Bộ máy 2 thì 50cc cải tiến này đánh dấu sự khởi đầu của công ty Honda Motor Co. và là một trong những sản phẩm cơ khí đầu tiên xuất hiện.
"Vào mùa hè cuối năm 1946, một doanh trại giống như tòa nhà nhỏ được dựng lên giữa những đám cỏ um tùm trên mảnh đất cháy xém toạ lạc tại số 30, khu Yamashita-cho, thành phố Hamamatsu. Bên trong là một máy tiện truyền động bằng dây đai cũ và bên ngoài khoảng mười máy công cụ xếp thành hàng. Tại lối vào, biển hiệu công bố tên gọi là Viện Nghiên Cứu Kỹ Thuật Honda đã được treo. Chủ tịch và 12 hay 13 nhân viên đã làm việc chăm chỉ".
Đây là đoạn mở đầu lịch sử của Honda Motor Company công bố nhân dịp kỷ niệm lần thứ bảy năm thành lập công ty. Đương nhiên chủ tịch là Soichiro Honda. Lịch sử ghi lại đơn giản ngày thành lập là vào cuối mùa hè, nhưng chính xác hơn, đó là ngày 1 tháng 9 năm 1946. Xe đạp có động cơ phụ trợ đã được đem ra thị trường vào tháng 10 do Viện Nghiên Cứu Kỹ Thuật Honda kể từ khi thành lập chỉ một thời gian ngắn kể từ khi cuộc gặp gỡ của ông Honda với cổ máy phát điện cho đài phát thanh vô tuyến.
Hình chụp ở phi trường Columbus Airport trong cuộc viếng thăm tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ với ý định mở nhà máy Honda tại đây. Từ trái qua phải: kỹ sư Kiyoshi Kawashima, bà Sachi Honda (tên con gái là Isobe), ông Soichiro Honda, Thống đốc James Rhodes và một cộng sự viên.
"Trước khi chọn đến động cơ này, chúng tôi đã cố gắng thử nghiệm một số máy khác nhau và không có gì trong số các mẩu máy dường như hoàn toàn đáp ứng những gì 'ông lão' (cách gọi ông Soichiro Honda một cách thân mật) muốn áp dụng" Isobe cho biết, mô tả sự chú tâm nhiệt tình của chủ tịch Honda". Nhưng lần này, ông đã có một thái độ hoàn toàn khác. Phương pháp dùng bánh lăn cao su không chạy tốt, do đó, ông tự hỏi liệu có thể thử gắn động cơ ở trung tâm hoặc ở phía sau xe, và bàn bạc về việc liệu cổ máy cần phải có một vành đai kéo bằng ổ đĩa hoặc ông ta nên sử dụng một chuỗi dây sên, đại khái như thế. Trong ba hoặc bốn ngày ông làm việc không ngừng kể cả ngày và đêm. Tôi đã ở đó và giúp đỡ ông ấy. Vào ngay khi đó, tấm biển hiệu Viện Nghiên Cứu Kỹ Thuật Honda đã bay xa".
Sachi nhớ lại: "Tôi đã thực hiện một trong những việc thử cưỡi chiếc xe. Đó là những gì chồng tôi nói khi ông đã đem một trong các máy mẫu thử nghiệm của mình về nhà. Sau đó, ông kể lại rằng ông đã làm ra nó bởi vì ông không thể đứng xem tôi đạp rất chăm chỉ chiếc xe một cách mệt nhọc khi tôi đi kiếm thực phẩm để mua, nhưng đó chỉ là một câu chuyện mà sau đó ông đã thuật lại để làm cho nghe có vẻ tốt hơn mặc dù đó có thể thực ra chỉ là một phần nhỏ. Tuy nhiên trên điểm chính, tôi nghĩ rằng ông ấy thực sự muốn biết liệu một phụ nữ có thể sử dụng chiếc xe đạp gắn động cơ hổ trợ của mình hay không. Tôi đã thành con chuột bạch thử nghiệm. Ông bắt tôi lái xe trên tất cả các đường phố chính đông người, vì vậy tôi mặc quần monpe tốt nhất của tôi (loại quần rộng thùng thình mặc bởi phụ nữ nông nghiệp và lao động nữ ở Nhật Bản) khi tôi sử dụng chiếc xe đạp".
Do đó, người phụ nữ đầu tiên lái xe thử nghiệm trong lịch sử của Honda Motor Co. là vợ của chủ tịch công ty, bà Sachi. Làm thế nào mà các người qua đường phải chăm chú nhìn. Đấy là một chiếc xe đạp mà hoạt động như một chiếc xe máy và nó đang được một phụ nữ điều khiển. Rõ ràng đó một phần kế hoạch của chủ tịch Honda đã có toan tính riêng của mình để trở thành đầu câu chuyện trong thị trấn.
"Sau khi chạy xe trong khoảng một thời gian, tôi trở về nhà và chiếc quần monpe đẹp nhất của tôi đã bị phủ đầy dầu", bà Honda tiếp tục kể. "Tôi nói với ông ấy sự cố này không được tốt. Khách hàng của mình sẽ trở lại và họ sẽ chửi ruả. Phản ứng bình thường mọi khi của ông là "Ồ, hãy bình tĩnh. Không sao đâu". Nhưng thay vào đó, lần nầy ông nói: "Hmm, đúng là có thể như vậy". Ông ấy chấp nhận một cách không bình thường về chuyện nầy".
Lý do về sự vấy bẩn là do hỗn hợp nhiên liệu/dầu đã được thổi trở lại thông qua bộ chế hòa khí. Cũng như bà Honda muốn có những cải tiến thích hợp đã được chỉnh sửa để ngăn chặn điều này xảy ra trong các mô hình bán ra thị trường.
Máy phát điện cho đài vô tuyến số 6 được sản xuất bởi công ty Mikuni Shoko mà công ty nầy đã nổi tiếng với sản phẩm về bộ chế hòa khí. Chủ tịch Honda nhanh chóng đi vơ vét mua những sản phẩm còn sót lại ở các nhà máy Mikuni tại Odawara và Kamata.
Tuy nhiên với 500 bộ máy mà ông đã có thể gom góp lại, chắc chắn ông đã không làm bất cứ điều gì quá đơn giản như là chỉ chú tâm lắp ráp bộ máy vào xe đạp và sau đó đem chúng bán ra thị trường. Ông tháo rời tất cả các động cơ từng chiếc một, lắp đặt một số công việc vào cổ máy và ráp lại trước khi gắn nó vào một chiếc xe đạp, sau đó đem ra chạy thử và kiểm tra trước khi bán nó. Đấy là công đoạn đầu tiên của việc thanh tra xe thành phẩm xuất xưởng ngày nay.
Xe đạp với động cơ hổ trợ Type A năm 1947 cải tiến với bộ máy 2 thì Honda, vè chắn bảo vệ dây đai kéo bánh xe và bình xăng mang logo Honda
Mỗi động cơ phụ trợ xe đạp đã được xử lý từng chiếc một để nó sẽ không làm hoen ố tên của Viện Nghiên Cứu Kỹ Thuật Honda, tuy nhiên không biết sự cố nào có thể có được.
Hoàn thành sản phẩm theo cách này, các động cơ phụ trợ xe đạp đã được biết đến rộng rãi thông qua việc truyền từ miệng qua tai. Sau khi nghe những tin đồn đải, những người mua đến Hamamatsu từ Nagoya, Osaka, Tokyo và các thành phố lớn khác.
Rõ ràng rằng các động cơ cải tiến sẽ sớm bán hết sạch. Tất nhiên, chủ tịch Honda đã chuẩn bị cho bước đi tiếp theo. Những gì họ đã đang làm việc là sự phát triển động cơ riêng của họ và sản xuất ra động cơ Honda.
Trong tháng ba năm sau, vào năm 1947, Kiyoshi Kawashima trở thành cộng tác viên đầu tiên của công ty có trình độ kỹ thuật. Ông ta đã có cuộc phỏng vấn công việc của mình tại nhà riêng của chủ tịch Honda, ngồi gần tại một bàn kotatsu ấm áp truyền thống (bàn ấm chân bằng nước ở Nhật Bản). Sachi Honda nhớ lại dịp này:
"Chồng tôi nói với ông Kawashima," "Hiện tại, tôi không có khả năng trả tiền lương cho mức lương của người tốt nghiệp đại học." Kawashima trả lời một cách lể độ, "Tôi không quan tâm đến cho lắm".
Kawashima nhớ lại:
"Vâng, thẳng thắn mà nói, đó là năm 1947, phải thế không? Đó là đỉnh cao của tình trạng thất nghiệp. Vào thời điểm đó, tôi không quan tâm đến món tiền phải trả. Chỉ để tôi có thể làm công việc của một kỹ sư, công ty thì không quan trọng gì cho lắm với tôi. 'Ông lão' đã là một kỹ sư nổi tiếng ở Hamamatsu và đây là một cơ hội để tôi làm việc ở vị trí của ông ấy. Ngoài ra, gia đình của tôi ở khu Motome-cho, khu phố ngay bên cạnh Yamashita-cho, vì vậy chỉ mất năm phút đi bộ để làm việc. Không tốn chi phí vận chuyển. Việc trả tiền chắc chắn là thấp lúc đầu và đôi khi tôi lo lắng thậm chí tôi sẽ nhận được lương vào đúng lúc hay không, tôi đôi khi lo lắng về tiền lương, nhưng tôi là người độc thân sống nhờ ở cha mẹ tôi, vì vậy tôi tự xoay sở được. Bây giờ nhìn lại, tôi nhận ra tôi đã rất may mắn", ông tươi cười kể lại.
Kiểu xe đạp có động cơ hổ trợ Type F được đặt tên là Honda Cub F là kiểu xe đạp gắn động cơ Honda cuối cùng trước khi Honda bắt đầu sản xuất xe máy nguyên chiếc. Ra mắt vào năm 1952 và ngưng sản xuất năm 1954, xe Honda Cub F (Cub: Cheap Urban Bike - xe máy rẻ tiền sử dụng trong thành phố) đánh dấu sự phát triển của thương nghiệp Honda, được xếp vào 1 trong 240 mốc Công Nghệ Ô-tô Nhật Bản (240 Landmarks of Japanese Automotive Technology).
"Bạn có thể bắt đầu làm việc vào ngày mai," Honda nói với Kawashima và đơn giản rằng ông được thuê làm việc.
"Sau đó, khi tôi bước vào, công việc đầu tiên của tôi là cải tiến động cơ máy phát điện đài phát thanh vô tuyến. Khoảng chục cổ máy sẽ được cải tiến trong mỗi thứ hai hàng tuần, tôi sẽ tách rời máy phát điện và tháo dỡ động cơ. Ngày thứ ba, tôi sẽ rửa sạch tất cả các bộ phận rời. Qua ngày thứ tư, thứ năm và thứ sáu, tôi sẽ xử lý các bộ phận, và ngày thứ bảy lắp ráp chúng lại với nhau. Buổi chiều thứ bảy, tôi sẽ gắn các bộ máy hổ trợ cho xe đạp và đưa chúng vào chuyến chạy thử nghiệm. Tôi nói về việc cưỡi xe chạy để kiểm tra, nhưng tất cả việc tôi đã làm, thực ra là đi xe đạp gắn máy lên một ngọn đồi trong khu phố lân cận," ông nói và cười một lần nữa. "Về thời gian thực hiện, có một nhóm lớn của những người bán hàng rong, những gì mà chúng ta gọi là các đại lý, ngay hôm ấy và thậm chí có một số nhà môi giới kiểu chợ đen rất đáng ngờ, tìm đến và chờ đợi ở đó. Họ sẽ nhồi nhét hai động cơ trong mỗi ba lô của họ và mang chúng đi về Tokyo, Osaka và khắp nơi trên đất nước. Sau khi họ ứng trước một số tiền. Tôi nhìn thấy một nắm tiền và nghĩ về mình, có vẻ như tôi chắc sẽ được trả lương tháng này, tiền lương của tôi sẽ không bị trì hoãn và tôi cảm thấy rất hạnh phúc".
'Ông lão' ngoài những công việc đã nổi tiếng với việc la mắng các nhân viên, nhưng trong những ngày ở Viện Nghiên Cứu Kỹ Thuật Honda, chúng tôi đã thấy thêm nữa một khía cạnh khác. Ví dụ như một ngày kia, vợ ông Honda đã đến văn phòng của nhà máy Yamashita. Tôi chứng kiến, "Này tôi nghe nói rằng bà Honda đã đến đây, có chuyện gì vậy?" Người kế toán nói với tôi rằng bà ấy đã đến và hỏi thẳng ông ta: "'Ông lão' không chuyển bất kỳ món tiền nào vào tài khoản gia đình, vì vậy tôi không thể đi mua sắm. Tôi thực sự làm tiếc nhưng ông có thể bỏ ra cho tôi mượn một số tiền được không?" Đối với 'Ông lão', người lao động có quyền ưu tiên hưởng lương. Sau đó mới đến vợ và con của ông ta. Đó là hạng người của ông ấy".
"Tuy nhiên, đây là việc xảy ra trước khi công ty trở thành Honda Motor Co, Ltd.," Kawashima thêm vào. "Sau khi chúng tôi đã kết hợp thành tổng công ty, không còn việc gì giống như từng xảy ra. Trước đó, chi nhánh Art Shokai Hamamatsu mà 'Ông lão' đã hoạt động kinh doanh cá nhân của ông ấy đã thay đổi và trở thành một công ty độc lập. Tiếp đến sau đó, ông đã có vợ đến giúp đỡ tại văn phòng trong tất cả thời gian, nhưng khi nó đã thay đổi, dường như ông đã nói với vợ, "Từ ngày mai, bà không có bất kỳ liên hệ gì với công việc ở đây nữa. Đừng nói chuyện với tôi về điều đó và đừng đến văn phòng nữa". Ông ta hoàn toàn không pha trộn kinh doanh chính thức vào chuyện riêng tư, và ông ta đã không cho phép bất kỳ ai khác xen vào cả hai việc với nhau".
Xe Honda Cub F với những thiếu nữ đạp xe biểu diển trong việc khuyến mãi sản phẩm Honda vào đầu thập niên 1950 - với động cơ Honda 2 thì 50cc nặng 7 kí-lô, 1 mã lực cho phép tốc độ chiếc xe đạp đạt đến 35 Km/giờ
Ngay cả sau khi sản phẩm của Honda bắt đầu bán mạnh, thật không có vấn đề dễ dàng để xử lý những ngân sách cho Viện Nghiên Cứu Kỹ Thuật Honda. Hình như là các khoản tiền phải thu chồng chất thành đống. Tài khoản tài chính, đặc biệt là những gì chủ tịch Honda ghét phải đối phó với và những gì buộc ông phải thích ứng.
"Đó là một điều bí ẩn đối với tôi", Kawashima nói. "Khi nói đến giá thành sản phẩm, hiệu quả sản xuất tại nhà máy, ông là người nghiêm ngặt hơn bất cứ ai và cực kỳ hợp lý trong lối suy nghĩ của ông. Tuy nhiên khi gặp vấn đề liên hệ với việc bán hàng, ông không thể xử lý hoàn toàn công việc nầy".
Tất nhiên là các bộ máy cải tiến sẽ sớm bán sạch. Một cách tự nhiên, chủ tịch Honda đã chuẩn bị cho những gì sẽ tiếp theo sau. Những gì mà ông và nhân viên đều làm việc, tất nhiên, là sự phát triển động cơ sản xuất riêng của họ, một động cơ Honda chính hiệu.
Từ xe đạp gắn máy qua xe ô-tô
Mọi sự khởi đầu trong nước Nhật bại trận và bị tàn phá sau Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945, nhu cầu vận chuyển và đi lại như xe ô-tô quá thiếu thốn, không đáp ứng lại nhu cầu của đa số người lao động. Ông Soichiro Honda đã thu mua một số lớn thiết bị quốc phòng còn lại sau cuộc chiến như máy phát điện đem về cải tiến thành máy kéo hổ trợ sức kéo khi lắp ráp vào chiếc xe đạp - Sự thành công đến ngay lập tức cho kiểu máy gọi là Type A.
Đấy là một động cơ 50cc 2-thì kéo máy phát điện mà Quân Đội Hoàng Gia Nhật Bản đã sử dụng trong chiến tranh, ông Honda gắn động cơ nầy vào khung xe đạp, lắp dây kéo từ động cơ đến bánh sau để vận hành chiếc xe, kiểu xe mầy được đặt tên là Type A nhưng người sử dụng xe Honda nầy đặt tên là "ống khói" vì bộ máy 2-thì nhả ra quá nhiều khói.
Honda Dream Type D, một xe mô-tô đầu tiên của Honda sản xuất năm 1949 - động cơ 2 thì 96cc, 3 mã lực, hộp số có 2 số với bộ truyền động bằng dây sên, nặng 80 Kg, tốc độ 50 Km/giờ
Nhà máy Honda ở Hamamatsu phải hoạt động tối đa để đáp ứng lại nhu cầu của khách hàng. Có đến hơn 1.000 chiếc xe đạp gắn máy Type A xuất xưởng trong thời điểm ấy và đến ngày 24 tháng 9 năm 1948, ông Soichiro Honda thành lập công ty Honda Motor Co., Ltd. Kế thừa kiểu xe Type A là các kiểu Type B và C, riêng kiểu Type C là một phiên bản cải tiến với động cơ 89cc.
Thiên tài về cơ khí, Soichiro Honda lại kém khả năng điều hành và quản trị tài chính, vì vậy ông Takeo Fujisawa phụ trách công việc nầy và tiếp tay về việc thành lập và phát triển thị trường toàn quốc.
Ông Fujisawa gia nhập công ty Honda vào năm 1949 và trở thành "bộ phận không thể tách rời" với Soichiro Honda - cả hai người cùng lứa tuổi nên họ đã từ nhiệm để về hưu cùng lúc với nhau - Dưới sự hoạt bát của Fujisawa, công ty phát triển chính sách mới bằng việc phân phối sản phẩm qua các đại lý, qua năm 1950 Honda có trên dưới 5.000 đại lý trên toàn quốc.
Ông Soichiro Honda (trái) và ông Takeo Fujisawa (phải) cộng tác viên đắc lực của Soichiro, ngay từ ngày đầu đã thúc đẩy việc khuyến mãi những xe Honda Cub F trên toàn nước Nhật, Fujisawa cũng thúc đẩy ông Honda xuất cảng sản phẩm sang Mỹ Châu và Âu Châu.
Cũng trong năm 1949 khi ông Fujisawa đến cộng tác, Soichiro Honda cho ra mắt một xe mô-tô đầu tiên theo đúng tên của dòng xe: Honda Dream D - một xe mô-tô với cổ máy 49cc 2-thì với vòng máy tối đa 9.500 vòng/phút truyền động bằng dây sên. Với cấu trúc thực sự của một chiếc mô-tô 2 bánh trong khung sườn thép chắc chắn và huy hiệu Honda dưới hình cánh chim, người ta có thể đọc được hàng chử "The power of dream - Sức mạnh của ước mơ" nói lên viễn kiến của Soichiro Honda.
Xe Honda Dream Type E - một sản phẩm mới của Honda năm 1951 - động cơ 4 thì 146cc với 3 van nằm trên đầu xi-lanh, 5,5 mã lực, hộp số gồm 2 số và hệ thống giảm chấn ở hai bánh xe, tốc độ tối đa 82 Km/giờ
Nhưng kiểu mô-tô Dream D với tiếng máy nổ thường bị khách hàng chê bai nên qua năm 1951, Honda cho ra mắt kiểu Dream E, một xe mô-tô với động cơ 150cc 4-thì với 3 van trên đầu xi-lanh, động cơ nầy được xem là khá phức tạp vào thời điểm ấy. Kiểu Dream E cũng đánh dấu bước đi trường kỳ của Honda kể từ đó với động cơ 4-thì.
Honda Benly J năm 1953, mà động cơ được chế tạo để tham dự cuộc đua Isle of Man TT, kiểu xe nầy rất hoàn hảo trên đường trường theo đúng tên gọi Benly (tiếng nhật có nghiả là tiện nghi) - động cơ 4 thì 90cc với bộ van trên đầu máy, 3,8 mã lực với hộp số gồm 3 số
Liên tiếp sau đó, những kiểu xe mô-tô Honda nối tiếp cải tiến không ngừng - không chỉ nhắm vào thị trường nội địa, năm 1958, Honda thành lập công ty American Honda Motor Inc. tại California ở Hoa Kỳ và nhập cảng vào thị trường nầy những kiểu xe Dream và Benly (Benly tiếng nhật có nghiả là tiện nghi - phát âm trại ra là Bentley, một loại xe thể thao nổi tiếng vào thời điểm thập niên 1950), đặc biệt là kiểu xe Honda Super Cub C100 thích hợp với mọi túi tiền và giới trẻ ở Hoa Kỳ, kiểu xe nầy bán chạy trong suốt những năm cuối thập niên 1950 và kỷ lục đạt đến hàng trăm ngàn chiếc xe bán ra trong đầu thập niên 1960 qua chiến dịch quảng cáo "You meet the nicest people on a Honda" (xem bài Honda Super Cub tại Việt Nam).
Qua thập niên 1960, với sự thành công của Honda ở Hoa Kỳ, Soichiro quay mục tiêu qua việc sản xuất xe ô-tô.
Xe Honda N360 - ホンダ・N360
Soichiro Honda có ý tưởng sản xuất xe ô-tô trong đầu thập niên 1960, xuất thân từ kỹ sư cơ khí và đã từng làm việc ở chi nhánh Art Shokai tại thành phố Hamamatsu, Honda đã có nhiều kinh nghiệm về cơ khí ô-tô.
Trong bối cảnh nước Nhật phục hồi kinh tế sau chiến tranh, các tập đoàn và đại công ty quay sang việc sản xuất xe ô-tô và xe tải đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá. Trong số các hảng sản xuất xe ô-tô, những tên tuổi các doanh nghiệp nổi tiếng tham gia như Toyota, Mitsubishi, Isuzu, Mazda, Datsun, Nissan... còn có những doanh nghiệp sản xuất các loại xe hạng nhẹ như Daihatsu, Suzuki, Subaru... Thì có thể nói rằng Honda đã nhập cuộc sau cùng trong số các hảng chế tạo xe ô-tô tại Nhật Bản.
Xe Honda S360
Honda S500 - 1963
Soichiro Honda thoạt đầu nhắm vào những dòng xe mà các hảng chế tạo xe khác của Nhật Bản "quên" không để ý đến và chiếc xe ô-tô Honda đầu tiên là chiếc xe Honda S360 Roadster vào năm 1962, chiếc xe nầy chỉ ở trong tình trạng xe mẫu thử nghiệm mà không được đưa vào sản xuất dây chuyền - chiếc xe thực sự ra mắt công chúng là chiếc Honda S500 dựa trên mẫu xe S360 vào năm 1963 - là một xe thể thao 2 chổ ngồi có hình dáng tựa như chiếc Triumph TR4 của Anh Quốc với chiều dài nhỏ hơn 3,3 mét - S500 được trang bị động cơ 4 xi-lanh, 531cc với 4 bộ chế hoà khí và 2 trục cam trên đầu máy - bộ truyền động được kéo bằng dây sên như xe mô-tô, xe nặng 680 kí-lô và đạt tốc độ tối đa 129 Km/giờ. Sự thành công của loại xe thể thao nầy khiến Honda sau đó nhanh chóng cải tiến thành kiểu xe S600 và S800 chinh phục thị trường thế giới.
Honda S800 (trái) và Honda S600 Hardtop (phải)
Honda N360
Dòng xe thứ hai mà Soichiro Honda nhắm đến là loại xe du lịch cực nhẹ và nhỏ chở được 4 người mà người Nhật gọi là keijidōsha (軽自動車 - xe hạng nhẹ) hay còn gọi là Kei Car hoặc K-Car, ở Pháp Quốc được gọi là dòng xe "midget". Xe Honda N360 ra đời vào năm 1967 do mã hiệu N (Norimono tiếng nhật có nghiả là xe kiệu), xe dòng N360 được sản xuất đến năm 1970 và còn có kiểu xe thùng LN360 được ra mắt vài tháng sau kiểu N360.
Những trang quảng cáo và khuyến mãi xe Honda N360 trên những tạp chí ở Nhật Bản
Khác với dòng xe S360 và S500 ban đầu của Honda, chiếc N360 trông tựa như kiểu xe Mini Mk I (Austin Mini 850) của Anh Quốc (do BMC - British Motor Corporation sản xuất dưới 2 thương hiệu Austin và Morris) được trang bị một động cơ biến cải từ động cơ xe mô-tô Honda CB450 với dung tích máy 354cc, 2 xi-lanh với 1 trục cam trên đầu máy, mát máy bằng gió - bộ truyền động với 4 số tay hoặc 3 số tự động, với sức mạnh 31 mã lực xe đạt tốc độ tố đa là 115 Km/giờ. Chiều dài xe gần 3 mét, cân nặng từ 475 đến 520 kí-lô tùy theo kiểu.
Một xe Morris Mini do British Motor Corporation sản xuất
Bộ máy Honda N360 (trái) và Honda CB450 (phải)
Chi tiết cề cấu trúc khối động cơ và khoang máy trên xe Honda N360
Xen vào giửa kiểu xe N360 là kiểu xe cải tiến N400 và N600 được sản xuất từ năm 1968 đến 1972, trong đó xe N600 sau nầy là dòng xe Honda Civic nổi tiếng. Vào tháng giêng năm 1970, chiếc N360 được nâng cấp với nhiều chi tiết cải tiến, được gọi là NIII360 và tiếp tục sản xuất đến năm 1972 và được thay thế bở dòng xe Honda Life. Có tất cả 1.165.144 xe kiểu N đủ loại xuất xưởng đến cuối năm 1972.
Xe Honda N360 AT với hộp số tự động
Xe Honda N360 Sunroof với mui kính đóng mở được
Xe Honda NIII360
Kiểu cuối cùng của dòng xe N360: Xe Honda NIII360 Town
Xe Honda N360 được nhập vào miền nam Việt Nam vào cuối thập niên 1960, giá bán ngang ngửa với xe Citroën 2CV nên hợp với các gia đình trung lưu ít con và sinh sống ở các thành phố. Về việc bảo trì thì dể dàng do động cơ được làm mát bằng gió, ít cơ phận hơn động cơ mát máy bằng nước. Về việc lưu thông ở thành phố được dể dàng vì chiều dài của xe dưới 3 mét và tiện lợi cho giới tiêu dùng có nhu cầu di chuyển dưới 100 Km/ngày.
Một xe Honda N360 được phục chế ở Châu Âu
Một xe Honda N360 còn trong tình trạng tốt ngày nay ở Việt Nam
Gần đây, trong cuộc triển lãm xe ô-tô tại Tokyo vào năm 2009, công ty Honda trình bày một mẫu xe tựa như xe N360 - dòng xe Honda EV-N hoàn toàn sử dụng điện năng nhưng chưa thấy được đưa vào quy trình sản xuất và bán ra thị trường.
Một Concept Car được ra mắt trong Hội Chợ Triển Lãm xe Ô-tô tại Tokyo năm 2009 - Xe Honda EV-N có hình dáng của xe N360 nhưng sử dụng động cơ điện và bình điện Lithium
0 nhận xét:
Đăng nhận xét